Top 10 đạo kỵ binh mạnh nhất thế giới (P1)
Tất cả những bình chọn kiểu Top 10 trong loạt bài chuyên đề “kỹ thuật quân sự thời đại vũ khí lạnh” dựa trên bình chọn của một số website lớn về quân sự trên thế giới như Military.com, Military.discovery.com, Guardian.co.uk, Defence.pk …
Sự bình chọn này được dựa trên nhiều tiêu chí chứ không đơn thuần chỉ dựa vào sự nổi tiếng và sức mạnh của đội quân đó, các độc giả có những thắc mắc và kiến giải của riêng mình xin hãy cứ tự nhiên đưa ra ý kiến bàn luận.
1. Kỵ binh Macedonia – Hetairoi (chiến hữu kỵ binh)
Nếu các bạn nghĩ Macedonia chỉ có bộ binh Phalanx ( bộ binh đội hình phương trận ) là mạnh nhất thì các bạn đã đánh giá quá thấp lực lượng khinh kỵ mạnh mẽ và quy củ bậc nhất thế giới này.
Nếu không có các Hetairoi hỗ trợ thì bộ binh Phalanx khó có thể gọi là bất bại bởi quá chậm chạp và phải lệ thuộc vào đội hình
Hetairoi là tên gọi lực lượng kỵ binh chủ chốt trong quân đội Macedonia và được đánh giá là lực lượng kỵ binh mạnh mẽ thành công nhất trong thế giới cổ đại dưới sự lãnh đạo của vua Philiops II và sau đó là con trai ông - Alexandros đại đế.
Bằng việc coi nghề lính là một nghề chính thống, có hệ thống trường đào tạo và luyện tập rất bài bản. Alexandros đại đế đã tạo ra cho mình một lực lượng kỵ binh hoàn hảo.
Kỵ binh Hetairoi luôn chú trọng phát triển những ưu điểm của mình và không quên khắc phục những nhược điểm vốn có.
Kỵ binh Hetairoi luôn rất thành công với chiến thuật đánh thọc sườn chớp nhoáng gây rối loạn đội hình chiến thuật đối phương sau đó là rút lui an toàn.
Ngoài ra Alexandros cũng sử dụng kỵ binh như một lực lượng trợ chiến cho bộ binh Phalanx ( phương trận ) vốn chậm chạp, dù là chiến thuật nào kỵ binh Hetairoi cũng hoàn thành xuất sắc và biến Alexandros đại đế thành một vị tướng đánh đâu thắng đó.
Mười mấy năm thân chinh cầm quân chưa 1 lần thất bại, ông qua đời vì bệnh số rét hoặc thương hàn.
Đội hình mũi dùi của kỵ binh Macedonia
Vũ khí của Kỵ binh Hetairoi Macedonia:
- Xyston : một loại giáo nặng có chiều dài hơn 3 mét.
- Kopis : một loại gươm ngắn và nhẹ
- Mũ trụ
- Áo giáp bằng đồng và giáp vai bằng da hoặc bằng kim loại.
- Giáp bảo vệ cho ngựa ở phần ngực và đầu.
Một khinh kỵ binh Macedonia tiêu chuẩn
2. Kỵ binh Ả Rập
Đây là đạo kỵ binh hùng mạnh của Khalid ibn Al Walid thành lập cho công cuộc chinh phục và bành trướng đạo Hồi.
Khởi đầu từ đạo kỵ binh cận thân tinh nhuệ của Khalid, ông dần mở rộng và phát triển nó thành một đạo quân bách chiến bách thắng trên các thảo nguyên và sa mạc của Trung Đông, Bắc Phi.
Với tư tưởng “Đạo Hồi là đức tin của chiến tranh và bạo lực“ đạo quân kỵ được ông bồi dưỡng cực kì tinh nhuệ với những trang bị tối tân nhất so với thời bấy giờ.
Đặc biệt với tinh thần sẵn sàng tử vì đạo, không gì có thể ngăn cản được bước tiến của họ. Họ có sức chịu đựng, kỷ luật, khả năng cưỡi ngựa tuyệt vời, lòng nhiệt tình tôn giáo đến cực đoan nhưng không hề ngu ngốc.
Mỗi người kị binh đều được học cưỡi ngựa, lạc đà, sử dụng nhiều loại vũ khí như gươm, giáo, cung tên sau đó là võ thuật và chiến thuật quân sự.
Không có ghi chép gì nhiều về các tướng lĩnh thời này nhưng kỵ binh Ả Rập bất bại bởi tính kỷ luật và khả năng lợi dụng địa hình rất tốt của họ.
Với họ, tôn giáo là chính nghĩa
Trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhamamad qua đời (632-642) đội kỵ binh Ả Rập hung bạo như cơn gió xoáy khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng : chiếm bán đảo Arabia, chiếm Iraq, Syrua, Palestine, Ai Cập.
Năm 648 quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia sau đó là 1 nửa Châu Âu.
Năm 721 quân Hồi giáo chiếm trọn Ba tư và lấy nó làm bàn đạp tấn công các nước Trung Á. Chiếm Ấn Độ và bị chặn đứng bởi quân nhà Đường ở Trung Quốc.
Trang bị:
- Vũ khí chính: Kiếm cong " Saif" ( 'saif ' scimitar ), lao dài, cung cải tiến ( composite )
- Áo giáp : Áo giáp da nhẹ hoặc áo vải
- Ngựa không được bảo vệ hoặc trùm vải đơn giản.
Thanh Saif scimitar
3. Hiệp sĩ Norman , Hiệp sĩ dòng đền Templar, Teutonic
Về căn bản có thể coi các hiệp sĩ Nooc măng, giéc manh, các hiệp sĩ dòng đền ( Templars, Teutonic ) khá giống nhau về trang bị, phong cách chiến đấu và cả tư tưởng.
Nhưng nói chung họ là những kị binh mạnh mẽ và lý tưởng nhất cho thể loại chiến tranh thời đại vũ khí lạnh.
Các hiệp sĩ Norman phục vụ cho các cuộc chiến lãnh thổ còn những hiệp sĩ dòng đền lại là lực lượng đấu tranh cho các cuộc thánh chiến.
Họ luôn đi đầu trong các trận chiến và là những con quái vật thực sự trên chiến trường, chiến thuật lao đến húc thẳng vào đội hình địch từ phía xa như 1 con tê giác khổng lồ sau đó tản sang 2 cánh vòng về chuẩn bị cho cú húc tiếp theo, việc này được làm đi làm lại cho đến khi đội hình địch bị xé nhỏ.
Hiệu ứng “binh bại như núi” sẽ đến với quân địch một cách mau chóng khi nhìn thấy đạo quân thiết kỵ binh giáp sáng ngời tràn đến hết lớp này đến lớp khác.
Thế trận bị phá vỡ, trước sau không nghe được lệnh của tướng lĩnh cộng thêm cú sốc từ những lần Charge khiến quân địch tan vỡ ý chí cho đến lúc bắt đầu bỏ chạy.
Và một khi đã quay lưng bỏ chạy và kỵ binh đuổi ở phía sau thì số phận của trận chiến đã được định đoạt.
Những yếu tố làm nên sức mạnh của một Hiệp sĩ châu Âu
Những hiệp sĩ Norman, Giéc manh ( German ) hay các hiệp sĩ dòng đền là những người thống trị chiến trường Châu Âu trong suốt thời kì trung cổ.
Tản mạn: Trong nhiều game theo phong cách châu Âu thường có xuất hiện nhân vật Paladin, ta dễ nhận thấy nhân vật này lấy cảm hứng từ những thiết kỵ binh dòng đền ( Temple knight). Vậy rốt cuộc trong lịch sử những Paladin là ai ?
Một Paladin
Thực ra ngay cả ở Châu Âu hiện cũng vẫn còn có nhiều tranh cãi xoay quanh lịch sử của lớp nhân vật này.
Một số ý kiến cho rằng những Paladin chính là Temple Knight cao cấp nhất, những hiệp sĩ có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, họ đem cả sức mạnh lẫn linh hồn của mình phục vụ đạo của mình ( chủ yếu là Kito và tin lành ).
Từ Paladin cao quý và ý nghĩa đến mức mà về sau nó được mở rộng ra để chỉ những hiệp sĩ có tinh thần hào hiệp như các chiến binh của King Arthur và sau đó là các hiệp sĩ bàn tròn.
Dù không nhiều nhưng các Paladin thời đó nổi tiếng khắp Châu Âu từ Ý, Pháp, Anh, Đức đến các nước nói tiếng Latin, họ đều sử dụng chung từ Paladin hay Paladino để chỉ những đấng hiệp sĩ chính nghĩa và hào hiệp.
Tuy nhiên cũng có những tài liệu nói rằng những người xứng đáng với danh hiệu Paladin chỉ có 12 người ( ứng với 12 tông đồ của đức chúa Jesus ) được nhắc đến trong trường ca The song of Roland.
Trường ca bằng thơ này đã liệt kê 12 Paladin được phong thánh và có sức mạnh của Chúa trời.
Đó là người anh hùng Roland, Charlemagne – cháu trai của ông, người bạn và chiến hữu mạnh nhất của Roland: Oliver, Đức tổng giám mục Turpin và người anh hùng Ogier của người Đan Mạch …
Những đối thủ của Roland như Ferumbras và các Kito hữu của ông cũng được tính là các Paladin bất kể phe phái.
Như vậy theo tài liệu đó, chỉ có 12 người mạnh nhất thời kỳ bất chấp phe phái mới xứng đáng với danh hiệu Paladin cao quý, các nhà nghiên cứu còn cho rằng trường ca “Bài hát của Roland “ hầu hết dựa trên những chi tiết có thật của lịch sử.
Paladin Roland trong truyền thuyết được tái hiện trên màn ảnh
Trang bị:
- Long sword, Mace , Long lance
- Kite Shield
- Chainmail, Plate mail Armor
Long Sword và Kite Shield
4. Voi chiến Ấn Độ
Mặc dù với số lượng ít ỏi, khó điều khiển và tốn kém khi sử dụng nhưng những chú voi trên chiến trường luôn tỏ ra áp đảo mọi đạo quân khác bằng hình thể khổng lồ của mình.
Những chú voi được sử dụng trong các trận đánh lần đầu tiên ở khu vực Châu Á cổ đại và đặc biệt là Ấn Độ, Miến Điện.
Chúng cũng được xem như những cỗ chiến xa cơ động mang tính quyết định trong những trận đánh của người Ấn. Mỗi trận đánh của người Ấn Độ chỉ sử dụng khoảng hơn 500 voi chiến nhưng cũng đủ làm chủ cục diện chiến trường.
Voi có lớp da dầy nên có thể chống lại hầu hết những loại vũ khí thông thường, bản tính hung dữ và một hình thể cực kì to lớn nên bộ binh và kị binh thông thường chống lại chúng là điều không thể.
Theo lệnh của quản tượng, voi có thể dẫm, đạp và húc đổ mọi mục tiêu trong tầm mắt.
Ngoài ra mỗi voi chiến cũng mang trên mình 2 đến 3 cung thủ cho việc tấn công từ xa. Thậm chí với những chú voi đủ lớn, những chiếc kiệu sẽ được đặt trên lưng voi có tác dụng bảo vệ tối đa cho người điều khiển (thường là đối với tướng lĩnh)
Tuy nhiên loài voi cũng có một đặc điểm là dễ mất bình tĩnh bởi tiếng động, khói lửa … Nhưng điều này có thể khắc phục được trong quá trình huấn luyện.
Bằng chứng là những chú voi chiến của vua Quang Trung còn được đặt đại bác lên trên lưng để chiến đấu như những cỗ xe tăng đích thực.
Không thể nghi ngờ sức mạnh của loài voi
Tuy nhiên voi chiến chỉ được xem như một con át chủ bài của bản địa chứ không được đem đi sử dụng cho các cuộc chiến chinh phục.
Voi cũng nhạy cảm với khí hậu lạnh nên nó không thể xuất hiện trong các trận dánh của người Châu Âu và những xứ lạnh khác.
5. Ottoman sipahi
Một chức sắc Ottoman
Các Sipahi là tên gọi riêng để chỉ tầng lớp kị binh đặc biệt của đế chế Ottoman, cũng là tầng lớp thượng lưu được trọng vọng ( giống như những Samurai Nhật Bản).
Họ được trang bị tận răng phục vụ cho việc chiến đấu và khả năng cưỡi ngựa cũng như sử dụng các loại vũ khí tuyệt vời.
Tuy là kị binh nặng nhưng các Sipahi vẫn có khả năng sử dụng hầu hết mọi loại vũ khí
Khác với lối đánh thiên về càn lướt của các hiệp sĩ Châu Âu , những gì mà các Sipahi Ottoman thể hiện đã nâng phương pháp đánh trận lên tầm nghệ thuật.
Ở các Sipahi Ottoman có tính kỉ luật thép, tầm nhìn chiến thuật, sự khổ luyện và nhất là kinh nghiệm trận mạc cực kì dày dặn.
Họ có thể làm đau đầu bất kì đội quân hiếu chiến nào bằng chiến thuật hit and run cổ điển hay hạ gục kẻ địch đuổi theo bằng thê hồi mã cung trên yên ngựa.
Họ cũng được trang bị giáo nhẹ và khiên nếu phải đánh xáp lá cà, khi cần ngọn giáo cũng được ném đi rất chính xác giống như một vũ khí tầm xa hiệu quả.
Các Sipahi Ottoman cũng có phương pháp bố trận và đánh trận hiệu quả đến nỗi mà người Pháp và Italia còn nghiên cứu và sử dụng nó cho quân đội của mình mãi đến tận cuối thế kỉ 19.
Theo Soha